1.Đặc điểm của pepsin [EC 3.4.4.1]
Pepsin là enzyme quan trọng trong hệ tiêu hóa của động vật. Pepsin là enzyme có mặt trong hệ tiêu hóa của động vật có vú, chim, bò sát và cá. Ở heo enzyme tập trung ở những tế bào ở phần đáy bao tử. Khi mới tiết ra, pepsin ở dạng tiền enzyme là pepsinogen. Nhờ HCl trong dịch dạ dày pepsinogen được hoạt hóa thành pepsin. Pepsin thủy phân protein thức ăn, hoạt động tối ưu ở môi trường pH = 1,7 - 2,2. Pepsin là một endoenzyme, nó phân cắt các liên kết peptid ở nội mạch phân tử tạo sản phẩm có phân tử lượng nhỏ hơn là pepton, peptid, oligopeptid. Sự phân giải của protein của pepsin trong dạ dày chưa hoàn toàn, sự phân giải này sẽ được tiếp tục khi thức ăn chuyển đến ruột.
Hiện nay người ta đã chiết tách và tinh sạch được pepsin và pepsinogen. Ba loại pepsinogen A và 2 loại pepsinogen C được tinh sạch từ dạ dày múi khế của dê. Ở dạ dày động vật đều có 2 loại pepsinogen trên nhưng tỉ lệ khác nhau. Trong dạ dày của người pepsinogen C chiếm 25% trong tổng số. Pepsin của heo thô chứa pepsin chính là A và các pepsin phụ B, C, D và gastricsin (EC.3.4.4.22).
Về cấu tạo, phân tử pepsin chỉ có một mạch polypeptid với 329 gốc axit amin, đầu có nhốm -COOH là alanine và đầu có nhóm -NH2 là isoleucine. Trong phân tử có 3 cầu díulfua (-S-S-) và một gốc axit phosphoric kết hợp với nhóm -OH của một trong các gốc serine.
Sự hiểu biết về trung tâm hoạt động còn hạn chế. Trung tâm hoạt động của pepsin gồm một hoặc 2 nhóm -COOH của axit glutamic và một nhân thơm (phenol) của tyrosine.
Pepsin tách từ các nguồn khác nhau có khả năng xúc tác khác nhau.
2. Thu nhận pepsin
Quá trình chiết tách pepsin từ màng nhầy dạ dày là sự phối hợp của 3 quá trình: phá vỡ tế bào, hoạt hóa và chiết tách enzyme. Hiện nay có 2 phương pháp thu nhận pepsin là phương pháp chiết và phương pháp tự phân. Nguyên liệu thường dùng là dạ dày heo thu nhận từ các lò giết mổ. Để có được chế phẩm enzyme tốt nguyên liệu phải tươi, lấy ngay sau khi giết mổ.
2.1. Phương pháp chiết
Phương pháp chiết được thực hiện theo qui trình sau:
Dạ dày →Rửa sạch →Tách màng nhầy →Nghiền →Chiết tách → Kết tủa → Ly tâm → Chế phẩm thô
Để chiết tách người ta ngâm vào nước có 5% butanol hay glyxerin và chloroform để tránh nhiếm khuẩn. Để kết tủa có thể sử dụng ethanol hoặc muối amoni sunphat hoặc dung môi hữu cơ.
2.2. Phương pháp tự phân
Qui trình thu nhận được thực hiên theo sơ đồ sau (của Payeba và cộng sự):
Dạ dày →Rửa sạch → Tách màng nhầy → Xay nhuyễn →Tự phân → Lọc → Kết tủa → Ly tâm → Sấy → Chế phẩm thô.
Giai đoạn tự phân: màng nhầy sau khi xay nhuyễn bổ sung thêm HCl 0,5% với tỉ lệ dạ dày/dịch là 1/2 theo khối lượng. Khuấy đều trong thời gian 24 -28 giờ, sau đó lọc vớt bỏ mỡ nhiều lần và thu dịch lọc.
- Kết tủa: Kết tủa bằng NaCl nồng độ bão hòa 25% bằng cách cho muối từ từ, khuấy nhẹ cho đến khi dung dịch bảo hòa. Để yên trong 30 phút. Để có thể kết tủa có thể dùng các tác nhân khác như cồn, muối amon sulphat, axeton, izopropanol ...
- Ly tâm: Hỗn hợp dịch sau để yên được ly tâm 10 -15 phút với tốc độ 5000 - 6000 vòng / phút.
- Sau khi ly tâm sấy kết tủa ở 30 -40oC hoặc sấy đông khô. Để tránh bị mất hoạt tính, trong quá trình sấy người ta trộn thêm vào chế phẩm enzyme chất độn như tinh bột hòa tan, maltose, dextrin....
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: