Vai trò của enzyme trong điều trị và chuẩn đoán bệnh đã được biết từ lâu và hiện nay ngày càng phát triển.
- Enzyme amylase:Được sử dụng để phối hợp với coenzyme A, cytocrom C, ATP, carboxylase để điều chế thuốc điều trị bệnh tim mạch, bệnh thần kinh. Mặt khác, amylase phối hợp với enzyme thủy phân để chữa bệnh thiếu enzyme đường tiêu hóa. Amylase của vi khuẩn cho đến nay có ưu điểm là bền hơn trong môi trường axit của dạ dày so với amylase thu nhận từ động vật và vi nấm. Amylase lấy từ nguồn vi khuẩn Bacillus subtilis được dùng để bào chế thuốc giúp tăng cường tiêu hóa trong trường hợp ăn khó tiêu.
- Enzyme bromelain:Trong y học, Bromelain được sử dụng để làm giảm đau nhanh sau khi phẫu thuật, giảm đau đối với các trường hợp viêm khớp, viêm đa khớp, giảm thời gian tan các vết bầm và chống viêm. Bromelain còn có khả năng chống đông tụ các tiểu cầu, làm giảm nguy cơ đột quỵ đối với bệnh tim mạch, tăng khả năng hấp thụ các loại thuốc đặc biệt là kháng sinh như amoxiciline hay tetracyline.
Bromelain là enzyme thủy phân protein thành axit amin nên có lợi cho tiêu hóa, hoạt động được trong môi trường axit của dạ dày và môi trường kiềm của ruột non: Nó có thể thay thế cho các enzyme tiêu hóa như: pepsin, trysin.
- Enzyme tripsin và chymotripsin:Các enzyme này được sử dụng làm thuốc tiêu viêm, làm lành vết thương, vết bỏng, làm giãn và tiêu biến niêm mạc bị hoại trong một số bệnh viêm phổi, viêm khí quản. Tripsin dùng để chữa bệnh viêm tĩnh mạch huyết khối, viêm tuỵ (dùng pacreatin là hỗn hợp của tripsin, chymotripsin, peptidase, lipase và amylase). Chymotripsin chữa bệnh loét dạ dày, loét kết tràng.
Cùng với sự phát triển của kỹ thuật gen, với sự hỗ trợ đắc lực của enzyme, con người đã sản xuất được những chất mà cơ thể sống chỉ có thể tổng hợp được một lượng cực nhỏ như inteferon, một số kháng thể, hormon, vacxin, insulin, vv ...
Insulin được tổng hợp lần đầu tiên theo kỹ thuật gen vào năm 1978, hiện nay đã được sản xuất và bán rộng rãi trên thị trường. Inteferon tổng hợp theo con đường sinh học ra đời ở Aillen năm 1985.
Năm 1975, hai nhà khoa học Kohler và Milster đã tìm ra phương pháp tổng hợp kháng thể đơn dòng bằng kỹ thuật lai soma giữa tế bào B với một tế bào ung thư. Kháng thể đơn dòng có tính đặc hiệu cao với kháng nguyên nên được sử dụng để sản xuất ra các bộ kit dùng trong chuẩn đoán bệnh.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: