Phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử (AAS) dựa vào khả năng hấp thụ chọn lọc
các bức xạ cộng hưởng của nguyên tử ở trạng thái tự do. Đối với mỗi nguyên tố, vạch
cộng hưởng thường là vạch quang phổ phát xạ nguyên tử của chính nguyên tử đó.
Thông thường khi hấp thụ bức xạ cộng hưởng nguyên tử sẽ chuyển từ trạng thái ứng
với mức năng lượng cơ bản sang mức năng lượng cao hơn gần với mức năng lượng cơ
bản nhất, người ta gọi là bước chuyển cộng hưởng.
Trong phương pháp này quá trình nguyên tử hóa có thể thực hiện bằng phương
pháp ngọn lửa hoặc bằng phương pháp không ngọn lửa. Trong điều kiện nhiệt độ
không quá cao (1500 – 30000C) đa số hơi nguyên tử tạo thành các trạng thái cơ bản.
Khi người ta chiếu vào đám hơi nguyên tử một chùm bức xạ điện từ có tần số bằng tần
số cộng hưởng thì các nguyên tử tự do sẽ hấp thụ các bức xạ cộng hưởng này và làm
giảm cường độ của chùm bức xạ điện từ. Sự hấp thụ bức xạ của đám hơi tuân theo
định luật Lambe – Bia.
Thông thường số nguyên tử kích thích trong đám hơi không quá 1 – 2% nên
phương pháp này có độ nhạy và độ chính xác cao, thực hiên nhanh và khá đơn giản.
Gần 60 nguyên tố hóa học (chủ yếu là kim loại) có thể xác định bằng phương
pháp này với độ nhạy từ 10-3 ÷ 4,10-1μg/ml. Đặc biệt nếu dùng kỹ thuật nguyên tử hóa
không ngọn lửa thì có thể đạt đến độ nhạy 5,10-4μg/ml với sai số khoảng 15%.
Người ta đo đồng ở bước sóng 324,7nm, nếu dùng kỹ thuật nguyên tử hóa bằng
ngọn lửa thì đạt độ nhạy 0,03μg/ml, giới hạn phát hiện là 0,02 μg/ml. Nếu sử dụng kỹ
thuật không ngọn lửa thì đạt độ nhạy 8.10-3μg/ml và giới hạn phát hiện là1,5.10-3μg/ml.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: