-Màu sắc của than bùn: thay đổi theo thành phần cấu tạo, tuổi của than bùn và các điều kiện khi tạo thành. Do sự phân huỷ không hoàn toàn, than bùn là một chất xốp nhẹ, màu nâu hoặc đen; than bùn phân huỷ càng cao, màu càng đậm
-Nước trong than bùn: than bùn hình thành trong điều kiện ẩm ướt, do vậy than bùn có tính hút nước mạnh. Than bùn trong mỏ có thể chứa 80-95% nước. Khi phơi khô ngoài trời lượng nước còn lại khoảng 25-60%.
-Tỷ trọng: thay đổi theo cấu trúc và mức độ khô ít hay nhiều của than bùn. Thông thường loại than bùn có nhiều xơ, sợi thường nhẹ và có tỉ trọng nhỏ hơn 1kg/l, loại than bùn mềm nhão thường có tỉ trọng xấp xỉ 1kg/l.
Tỷ khối: phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: bản chất thực vật tạo than bùn, hàm lượng và thành phần khoáng chất thực vật tạo mùn, hàm lượng và thành phần khoáng chất, độ sâu lấy mẫu, độ ẩm trong thời gian lấy mẫu. Vì vậy, tỷ khối thay đổi rộng từ loại than bùn phân huỷ ít đến loại than bùn phân huỷ nhiều và cũng thay đổi từ trên mặt xuống đáy của mỏ than. Than bùn ở Việt Nam có nhiều khoáng chất nên tỷ khối thường khoảng 600kg/m3.
» Tin mới nhất:
» Các tin khác: